Giới thiệu về đất nước Estonia

Cộng hòa Estonia là một quốc gia nằm ở khu vực Bắc Âu. Estonia tiếp giáp với Nga về phía đông, giáp với Latvia về phía nam, giáp với vịnh Phần Lan về phía bắc và giáp với biển Baltic về phía tây. Estonia có địa hình tương đối thấp. Nước này có rất nhiều sông và hồ, kèm theo đó là một diện tích rừng đáng kể. Estonia nằm trong khu vực khí hậu ôn hòa, có tính chất chuyển tiếp từ khí hậu hải dương sang khí hậu lục địa.
Trong suốt lịch sử của mình, Estonia đã từng bị nhiều quốc gia láng giềng đô hộ, tiêu biểu là Thụy Điển và Nga. Ngày 24 tháng 2 năm 1918, nền cộng hòa đầu tiên ở Estonia được chính thức thành lập trên cơ sở tách ra khỏi Đế quốc Nga. Tuy nhiên, đến năm 1940, đất nước này
cùng với hai quốc gia Baltic còn lại là Latvia và Litva được sáp nhập vào Liên Xô rồi vào Đức (1941–1944) trong chiến dịch Barbarossa.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Estonia được sáp nhập vào Liên Xô với tư cách là một nước cộng hòa liên bang nhưng một số nước (Hoa Kỳ cùng một số nước châu Âu) cho rằng trong khoảng thời gian từ năm 1944–1991, Estonia nằm dưới sự chiếm đóng của Liên bang Xô viết.
Năm 1991, Liên Xô sụp đổ dẫn đến việc Estonia lại trở thành một quốc gia độc lập. Ngày nay, Estonia là một nước cộng hòa theo thể chế dân chủ nghị viện. Nước này là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, Liên minh châu Âu, NATO. Người Estonia có liên hệ về mặt dân tộc với người Phần Lan. Tiếng Estonia là một trong những ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Phần Lan-Ugria của ngữ hệ Ural, có liên hệ gần với tiếng Phần Lan và tiếng Hungary. Đây là một trong số ít những ngôn ngữ chính thức của châu Âu không bắt nguồn từ ngữ hệ Ấn-Âu.



Địa lý
Diện tích
• Tổng cộng 45.335
Dân số
• Ước lượng 2024 1.373.101
Kinh tế
GDP (PPP) Ước lượng 2024
• Tổng số 61,598 tỷ đô la Mỹ
(hạng 113)
• Bình quân đầu người 45.122 đô la Mỹ
(hạng 41)
GDP (danh nghĩa) Ước lượng 2024
• Tổng số 43,486 tỷ đô la Mỹ
(hạng 102)
• Bình quân đầu người 31.854 đô la Mỹ
Đơn vị tiền tệ Euro (€) (EUR)
Thông tin khác
Múi giờ UTC+02:00 (Giờ Đông
Âu)
• Mùa hè (DST) UTC+03:00 (Giờ mùa hè
Đông Âu)
Giao thông bên phải
Mã điện thoại +372
Mã ISO 3166 EE
Tên miền Internet .ee
Estonia trở thành một nước cộng hòa theo chế độ dân chủ nghị viện nhưng vào năm 1934, quốc hội Estonia bị giải tán bởi sự bất mãn của người dân do cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra và tác động đến nền kinh tế nước này. Năm 1938, Konstantin Päts lên làm tổng thống và cuộc bầu cử quốc hội mới lại được tổ chức tại Estonia.
Hiệp ước Xô-Đức năm 1939 giữa Liên Xô và Đức phân chia ảnh hưởng của mỗi bên đối với các nước Đông Âu và Baltic, theo đó Đức đồng ý việc Liên Xô đòi hỏi những lãnh thổ mà nước Nga đã mất trong cuộc nội chiến Nga, bao gồm 3 nước Baltic, trong đó có Estonia. Trong 2 năm 1939 và 1940, Đức đã di dân những người Đức ở Estonia và Latvia về nước. Ngày 16 tháng 6 năm 1940, Estonia cùng với cả Latvia và Litva gia nhập Liên Xô với sự đồng thuận của các chính phủ các nước này trước nguy cơ bị phát xít đức xâm chiếm. Các lực lượng quân đội của Estonia được lệnh tiến hành giải giới, không chống lại Hồng quân Liên Xô.
Tháng 7 năm 1940, một cuộc bầu cử được tổ chức với kết quả Estonia trở thành một nước cộng hòa xô viết thuộc Liên Xô với tên gọi Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Estonia. Nhiều quốc gia phương Tây, trong đó có Mỹ, không công nhận kết quả cuộc bầu cử này và họ cho rằng Liên Xô đã tiến hành những cuộc bầu cử gian lận. Ngược lại theo quan điểm của Nga, thì vào thời điểm đó, người dân và chính phủ hợp pháp của Estonia đã tình nguyện gia nhập Liên Xô bởi nhiều người Estonia vốn là người gốc Nga. Theo quan điểm của người Nga thì dân Estonia và người Nga đã có quan hệ lâu bền, cùng thuộc một đất nước là Đế quốc Nga trong hàng trăm năm. Theo RIA Novosti của Nga thì trước năm 1918, vùng Baltic đã không bao giờ tồn tại các quốc gia độc lập: họ đã là một phần của đế chế Nga từ thập niên 1720 trở đi (tức là cùng lúc với việc Scotland và Anh thống nhất để hình thành Vương quốc Anh), và trước đó vùng Baltic thuộc về Thụy Điển và trước đó nữa là các Hiệp sĩ Teutonic. Theo quan điểm của Nga, Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Ivanov đã tuyên bố: “Nói rằng Liên Xô đã chiếm đóng các quốc gia vùng Baltic là vô lý và vô nghĩa. Người ta không thể chiếm một cái gì đó vốn thuộc về anh ta.

Theo nguồn tài liệu từ Nga thì đương thời, Franklin Roosevelt trong trao đổi với Joseph Stalin ngày 01/12/1943 đã công nhận chủ quyền của Liên Xô ở vùng Baltic[15]: “Tại Hoa Kỳ đang dấy lên nghi vấn về các nước cộng hòa Baltic thuộc Liên Xô, và tôi tin rằ ng công luận thế giới
cho là các dân tộc của các nước cộng hòa này có một tương lai bấp bênh. Vì vậy, tôi hy vọng rằng Nguyên soái Stalin sẽ đi vào xem xét yêu cầu này. Cá nhân tôi không có nghi ngờ rằng người dân ở các nước này sẽ bỏ phiếu để gia nhập Liên Xô cũng như cùng nhau như họ đã làm
vậy trong những năm 1940… Thực tế là dư luận không biết rõ lịch sử.”
Mặc dù Hoa Kỳ và Vương quốc Anh là các nước đồng minh của Liên Xô chống phát xít Đức trong Thế chiến II công nhận chủ quyền tại
Cộng hòa Estonia của Liên Xô tại Hội nghị Yalta năm 1945 nhưng trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, chính quyền của các nước phương Tây lại
tuyên bố không công nhận việc này.
Các quan điểm lịch sử ở Liên Xô mô tả các sự kiện trong năm 1939 và 1940 như sau: Estonia là một tỉnh cũ của Đế quốc Nga. Cộng hòa Xô viết Estonia đã được công bố ngày 29 Tháng 11 năm 1918 nhưng chính quyền này bị quân phản cách mạng và Bạch Vệ tiêu diệt vào năm 1919. Trong tháng 6 năm 1940, Liên Xô đã sáp nhập Estonia là do người lao động lật đổ chế độ “độc tài phát xít” trong nước
[17] Cuối năm 1989, hai năm trước sự sụp đổ của Liên Xô, Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên Xô đã chính thức lên án nội dung trong Hiệp ước Molotov-Ribbentrop về việc sáp nhập các nước vùng Baltic (Estonia, Latvia, Litva) là bất hợp pháp,.[18] còn chính phủ Nga hiện nay thì phủ nhận hành động của Liên Xô là chiếm đóng Năm 1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô. Đức Quốc xã nhanh chóng sáp nhập Estonia vào một tỉnh của Đức với tên gọi Ostland. Các trại tập trung được thành lập trên lãnh thổ Estonia với những vụ giết chóc và thảm sát đẫm máu. Nhiều thanh niên Estonia dù không muốn tham gia phe phát xít cũng bị bắt phải tham chiến chống lại Liên Xô Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, 34.000 thanh niên Estonia đã gia nhập Hồng quân Liên Xô chiến đấu chống lại Đức Quốc xã, và chỉ 30% họ sống sót sau chiến tranh.
Khoảng 70.000 người Estonia đã tham gia vào các lực lượng vũ trang Đức Quốc xã (bao gồm cả Waffen-SS). Sự hình thành các đội quân người Estonia trong lực lượng Đức được công bố ngày 28/8 năm 1942 và chính thức thành lập vào năm 1942. Hầu hết trong số họ đã tham gia vào năm 1944, bất chấp lúc đó rõ ràng rằng Đức sẽ không giành chiến thắng trong chiến tranh[19] Ngày 21/9/1944, Ủy ban quốc gia của Cộng hòa Estonia đã cố gắng để thiết lập lại nền độc lập Estonia và yêu cầu quân Đức rời đi[20] và tuyên bố tái lập nền độc lập của đất nước vào ngày 18 tháng 9 năm 1944. Trong Chiến dịch Baltic (1944), Liên Xô đã đánh tan Cụm Tập đoàn quân Trung tâm và Cụm Tập đoàn quân phương Bắc của Đức. Quân Đức buộc phải rút chạy khỏi Estonia và bị dồn vào Kurland ở Latvia, tại nơi này hơn 300.000 quân Đức đã bị cầm chân cho đến khi Đức quốc xã đầu hàng.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Sau khi Estonia được Hồng quân Liên Xô giải phóng (theo quan điểm của Nga và người Estonia gốc Nga) hoặc tái chiếm đóng (theo quan điểm của phương Tây và người Estonia bản địa), nhiều người Estonia đã rời bỏ đất nước sang tị nạn ở Thụy Điển và Phần Lan. Dưới sự cai trị của Joseph Stalin, hàng ngàn người Estonia từng cộng tác với Đức Quốc xã đã bị đưa đi cải tạo lao động tại những vùng xa xôi hẻo lánh của Liên Xô. Sự việc này kéo dài đến khi Stalin chết vào năm 1953. Hơn một nửa số người Estonia bị lưu đày đã chết hoặc định cư tại nơi ở mới, số còn lại chỉ được chấp nhận trở về Estonia vào khoảng đầu thập niên 1960. Sau khi tái chiếm đóng Estonia, hơn 900.000 ha đất đã được Liên Xô quốc hữu hóa và phần lớn đất đã được trao cho người định cư từ Nga mới di chuyển sang. Nền kinh tế kế hoạch được thiết lập tại Estonia. Với vị trí địa lý chiến lược của mình cùng với tình hình Chiến tranh Lạnh càng thêm căng thẳng, nhiều vùng bờ biển và quần đảo tại Estonia đã bị quân sự hóa cao độ và rất ít người được phép sống tại những vùng đó. Bên cạnh đó, hàng trăm ngàn người từ các vùng khác nhau của Liên Xô đã đến Estonia định cư để tiến hành các chính sách công nghiệp hóa đối với vùng đất này. Từ thập niên 1970, Liên Xô bắt đầ u gặp những khó khăn về kinh tế và dần dần rơi vào khủnghoảng chính trị. Năm 1987-1989, một cuộc vận động của người dân Estonia đã nổ ra yêu cầu thành lập một chính quyền tự trị tại nước này và cả sự độc lập về mặt kinh tế. Năm 1988, sau các cuộc cải cách ở Liên Xô, những người theo chủ nghĩa dân tộc hoạt động công khai. Năm 1989, hơn hai triệu người Estonia, Latvia và Litva đã nối nhau thành một dải người từ Tallinn đến Vilnius để thể hiện tình đoàn kết của nhân dân ba nước Baltic cùng mong muốn tách khỏi Liên Xô.
Ngày 20 tháng 8 năm 1991, nhân lúc cuộc đảo chính Xô viết diễn ra tại Moskva, Estonia tuyên bố độc lập. Ngay sau đó, Iceland trở thành nước đầu tiên công nhận sự độc lập của Estonia. Ngày 31 tháng 8 năm 1994, đơn vị quân đội cuối cùng của Nga rời khỏi Estonia.
Sau khi trở thành một quốc gia độc lập, Estonia đã thắt chặt mối quan hệ ngoại giao với các nước phương Tây. Năm 2004, Estonia gia nhập
NATO và Liên minh châu Âu. Trong khi đó, mối quan hệ giữa nước này với Nga lại xấu đi nhanh chóng và lên đến căng thẳng cực độ trong vụ
Estonia di dời tượng đài Chiến sĩ đồng thiếc. Người Estonia gốc Nga đã vô cùng phẫn nộ và coi đây là một hành động lăng mạ sự hy sinh của
hơn 5 vạn chiến sĩ Hồng quân là người Estonia. Việc Estonia di dời tượng đã gây ra những cuộc biểu tình của cộng đồng người gốc Nga,
khiến một người chết và hàng trăm người bị bắt. Trước đó, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov mô tả quyết định khai quật các ngôi mộ và dỡ bỏ bức tượng Chiến sĩ là “ghê tởm”[24] Tổng thống Nga Putin lên án những người “đang xâm phạm các tượng đài tưởng niệm anh hùng chiến tranh, qua đó lăng mạ chính dân tộc mình và gieo mầm thù hận và nghi ngờ giữa các dân tộc và các nước”. Ông Putin không nhắc đến
quốc gia cụ thể nào, nhưng bài phát biểu là nhằm nhắc đến việc Estonia mới đây di dời tượng đài chiến sĩ hồng quân ở Tallinn.[25]
Năm 2015, Văn phòng Tổng Công tố của Nga đang thẩm xét lại tính hợp pháp của việc Hội đồng Nhà nước Liên bang Xô viết trao nền độc lập cho Litva, Latvia và Estonia vào thời điểm năm 1991. Đơn kiến nghị của hai nhà lập pháp thuộc đảng Nước Nga Thống nhất của Putin gửi tới các công tố viên cho rằng việc trao nền độc lập cho Lithuania, Latvia và Estonia là bất hợp pháp. Nói với hãng tin Reuters, Bộ trưởng Ngoại
giao Estonia Keit Pentus-Rosimannus cho rằng “Toàn bộ vấn đề là phi lý về mặt luật pháp. Đây là một ví dụ nữa của tư tưởng đế quốc đang
trỗi dậy mà không may đang tồn tại ở Nga.”
Estonia là một nước cộng hòa đại nghị thực hiện tam quyền phân lập.
Nghị viện Estonia là cơ quan lập pháp đơn viện, gồm 101 nghị sĩ được bầu theo hệ thống đại diện tỷ lệ với nhiệm kỳ 4 năm. Nghị viện thông qua luật, ngân sách nhà nước, phê chuẩn Chính phủ và giám sát hoạt động của Nhà nước. Ngoài ra, Nghị viện bầu chánh án Tòa án tối cao, chủ tịch Ngân hàng trung ương Estonia, tổng kiểm toán, tổng thanh tra và tổng tư lệnh Lực lượng Quốc phòng theo đề nghị của tổng thống.
Chính phủ Estonia thực hiện quyền hành pháp, đứng đầu là thủ tướng Estonia. Thủ tướng được đề cử bởi tổng thống và được bầu tại quốc hội. Chính phủ có tổng cộng 12 bộ trưởng. Thủ tướng có quyền chỉ định các bộ trưởng khác phụ trách các bộ chuyên trách, ngoài ra còn
có thể chọn thêm tối đa 3 bộ trưởng không phụ trách một bộ nào. Như vậy, số bộ trưởng tối đa trong chính phủ Estonia là 15 bộ trưởng.

Sau khi trở thành một quốc gia độc lập, Estonia đã thắt chặt quan hệ ngoại giao với các nước phương Tây. Do có những mối quan hệ về lịch sử
và văn hóa, người Estonia gần gũi với các nước Bắc Âu như Thụy Điển và Phần Lan hơn là với các nước cùng nằm trong khu vực Baltic như
Latvia và Litva. Hiện nay quan hệ kinh tế giữa Estonia với các Bắc Âu ngày càng được đẩy mạnh với hơn 3/4 đầu tư nước ngoài vào Estonia là
đến từ các nước Bắc Âu.
Sau khi độc lập khỏi nước Nga, hiến pháp của Estonia năm 1992 quy định chỉ có người định cư ở Estonia trước khi Liên Xô xâm lược (1940) mới được coi là người Estonia. Hiện có khoảng 1/3 dân số Estonia gốc Nga di cư sau 1940 trong thời kỳ Xô viết không có quyền công dân.
Trong khi đó, mối quan hệ giữa Estonia và Nga lại khá lạnh nhạt, nhiều lúc lên đến căng thẳng. Những mâu thuẫn chủ yếu giữa hai nước là
vấn đề lãnh thổ kể từ sau khi Liên Xô tan rã hay những quan điểm khác nhau giữa hai nước về vấn đề lịch sử trước đây. Người Estonia gốc
Bắc Âu coi người Nga là một lực lượng chiếm đóng đất nước họ, trong khi người Estonia gốc Nga và người Nga lại cho rằng họ đã giải phóng
Estonia thoát khỏi chủ nghĩa phát xít. Căng thẳng lên đến đỉnh điểm khi chính quyền Estonia quyết định di dời bức tượng đài chiến sĩ Hồng
quân tại thủ đô Tallinn hồi tháng 4 năm 2007 vì lý do tượng đài này “gợi nhớ lại thời kỳ đau thương thời Liên Xô”. Tuy nhiên người Estonia gốc Nga đã vô cùng phẫn nộ và coi đây là một hành động thóa mạ lịch sử. Mối quan hệ giữa Estonia với Nga trở nên căng thẳng chưa từng thấy.

Estonia được chia thành 15 hạt, đứng đầu bởi một hạt trưởng do chính phủ bổ nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm
và đại diện cho chính quyền quốc gia ở cấp địa phương. Sau hạt, Estonia lại được chia tiếp thành 227
khu tự quản, bao gồm các thành phố (linn) và thị trấn (vald). Dưới đây là danh sách các hạt của
Estonia:
Harju (hạt) (Harjumaa)
Hiiu (hạt) (Hiiumaa)
Ida-Viru (hạt) (Ida-Virumaa)
Järva (hạt) (Järvamaa)
Jõgeva (hạt) (Jõgevamaa)
Lääne (hạt) (Läänemaa)
Laan-Viru (hạt) (Lääne-Virumaa)
Pärnu (hạt) (Pärnumaa)
Põlva (hạt) (Põlvamaa)
Rapla (hạt) (Raplamaa)
Saare (hạt) (Saaremaa)
Tartu (hạt) (Tartumaa)
Valga (hạt) (Valgamaa)
Viljandi (hạt) (Viljandimaa)
Võru (hạt) (Võrumaa)
Về mặt địa lý, Estonia là một trong 3 nước vùng Baltic cùng với Latvia và Litva, thuộc khu vực Đông Âu. Nhưng theo phân loại của Liên Hợp
Quốc thì Estonia lại thuộc vào khu vực Bắc Âu. Nước này có tổng diện tích là 45.226 km², trong đó phần đất là 43.211 km² và phần nước là
2.015 km². Đường bờ biển của Estonia dài tổng cộng 3.794 km, phía bắc giáp với vịnh Phần Lan còn phía tây giáp với biển Baltic. Trên đất
liền, Estonia có đường biên giới chung với hai nước Liên bang Nga về phía đông và Latvia về phía nam.
Nhìn chung, địa hình của Estonia khá thấp. Độ cao trung bình của Estonia chỉ khoảng 50 m trên mực nước biển. Đồi Suur Munamägi là điểm
cao nhất tại Estonia nhưng cũng chỉ cao có 318 m. Giống với nước láng giềng Phần Lan, Estonia cũng có rất nhiều hồ. Trên một diện tích
bé nhỏ của nước này có tới 1400 hồ nước khác nhau, đa phần trong số chúng là những hồ nhỏ nhưng cũng có những hồ rất lớn như hồ

Bờ biển Estonia có rất nhiều đảo và vịnh. Hai đảo lớn nhất của Estonia là đảo Saaremaa và đảo Hiiumaa được tính là hai trong số 15 tỉnh của nước này. Estonia là một nước khá nghèo về khoáng sản. Các tài nguyên thiên nhiên chính của nước này chủ yếu bao gồm đá phiến dầu và đá vôi. Bên cạnh đó, rừng ôn đới cũng che phủ một phần lớn diện tích của Estonia, tới 51%. Estonia thuộc khu vực ôn đới gần lên đến hàn đới. Vị trí Estonia cũng là vùng đệm, chuyển tiếp giữa khí hậu ôn đới hải dương và ôn đới lục địa. Estonia (và phần lớn các nước Bắc Âu nói chung) có khí hậu điều hòa bởi dòng Hải lưu Gulf Stream thổi lên nên có nhiệt độ cao hơn so với những nước trong khu vực cùng vĩ độ trên thế giới. Biển Baltic cũng tác động đến khí hậu vùng ven biển, khác vùng nằm sâu trong nội địa. Nhiệt độ trung bình hàng năm của Estonia là 5 °C. Về mùa đông, thời tiết khá lạnh những cũng không đến nỗi quá gay gắt. Nhiệt độ trung bình tháng 2, tháng lạnh nhất trong năm là khoảng -5,2 °C. Mùa hè thời tiết thường dịu mát. Nhiệt độ trung bình tháng 7, tháng nóng nhất trong năm là khoảng 18 °C

Do chịu ảnh hưởng của dòng hải lưu Gulf Stream nước ấm và vị trí gần biển, Estonia có lượng mưa khá cao. Mỗi năm thông thường có từ 160 đến 190 ngày mưa. Tuyết thường rơi dày nhất tại vùng đông nam Estonia, kéo dài từ giữa tháng 12 đến cuối tháng 3. Mùa tuyết tan cũng là mùa lũ mùa xuân. Estonia là nước có nền kinh tế thị trường và là một trong những nước có mức thu nhập đầu người cao hơn mức trung bình ở Đông Âu và vùng Baltic. Tính đến năm 2016, GDP của Estonia đạt 23.476 USD, đứng thứ 105 thế giới và đứng thứ 34 châu Âu.
Chính phủ tiến hành các cải cách kinh tế thuận lợi do đó Estonia là nước đầu tiên trong các nước thuộc Liên Xô cũ thoát khỏi khủng hoảng, từ
năm 1994 luôn có tăng trưởng kinh tế. Sau khi gia nhập EU nhờ thực hiện chính sách kinh tế thị trường tự do, chính sách tài chính thích hợp,
ngân sách cân bằng và nợ công rất thấp và được sự hỗ trợ của phương Tây nên nền kinh tế bước vào giai đoạn phát triển nhanh, tăng trưởng
GDP trung bình đạt trên 8% (2004-2007). Tuy nhiên từ giữa năm 2008 đến đầu 2010, do tác động khủng hoảng tài chính toàn cầu, GDP năm
2008 giảm 3,6%, năm 2009 GDP giảm 14,1%, thất nghiệp tăng 13,8%, lạm phát 11% (cao nhất trong EU). Năm 2010, kinh tế có dấu hiệu
phục hồi: Theo Ngân hàng Thế giới, năm 2011 đã có hơn 14 nghìn công ty mới được đăng ký ở Estonia, cao hơn 40% so với cùng kỳ năm 2008.
Ngành công nghiệp công nghệ cao giờ đây chiếm tỷ trọng 15% GDP nước này.
Estonia cũng là một trong những nước có tốc độ đường truyền băng thông rộng nhanh nhất thế giới và giữ kỷ lục thế giới về số doanh
nghiệp trên đầu người. Toàn bộ 1,3 triệu công dân của quốc gia này trả tiền đỗ xe qua điện thoại di động và có các hồ sơ sức khỏe được lưu trữ
bằng công nghệ điện toán đám mây. 95% dân số nước này thực hiện việc kê khai hoàn thuế thu nhập hằng năm qua mạng và việc này chỉ
mất khoảng năm phút. Việc đăng ký thành lập một doanh nghiệp cũng chỉ mất 5 phút thao tác qua dịch vụ chính phủ điện tử.
GDP tăng 1,6% (dự kiến 2016), tỷ lệ thất nghiệp còn cao – 13,5%, tỷ lệ lạm phát (giá tiêu dùng) – 2,4%, nợ công – 7,7% GDP, nợ ngoài nước –
25,13 tỷ USD (2009 – 25,56 tỷ đôla). Estonia gia nhập Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) tháng 5 năm 2010, gia nhập khu vực đồng
euro từ ngày 1 tháng 1 năm 2011.
Estonia có những thế mạnh: điện tử – viễn thông, chi phí nhân công rẻ trình độ chuyên môn cao, chi phí về nguyên liệu, dịch vụ viễn thông và
vận tải, chi phí thuê văn phòng, nhà xưởng thấp hơn các nước khác trong khu vực,
Các ngành công nghiệp chủ yếu: máy móc, thiết bị điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin, gỗ, hàng dệt may và dịch vụ. Tăng trưởng sản xuất
công nghiệp năm 2010 là 10%. Các ngành nông nghiệp chủ yếu: ngũ cốc, khoai tây, rau, chăn nuôi và sản phẩm sữa, cá. GDP theo cấu trúc
nông nghiệp: 3.7%, công nghiệp: 30.2% dịch vụ: 66.1% Lực lượng lao động theo lĩnh vực nghề nghiệp: nông nghiệp: 4.2%, công nghiệp: 20.2%,
dịch vụ: 75.6%
Năm 2010, xuất khẩu đạt 10,77 tỷ USD. Mặt hàng xuất khẩu chính: máy móc, thiết bị điện – 21%, gỗ và sản phẩm gỗ – 9%, kim loại – 9%, đồ
nội thất – 7%, xe cộ và phụ tùng – 5%, các sản phẩm thực phẩm và đồ uống – 4%, dệt may – 4%, chất dẻo -3%. Đối tác xuất khẩu chính:
Phần Lan -18,57%, Thụy Điển – 12,52%, Latvia – 9,51%, Nga – 9,33%, Đức – 6,09%, Litva – 4,76%, Mỹ – 4,26%. Nhập khẩu đạt 11,520 USD. Mặt
Khí hậu
Kinh tế
Thương mại
hàng nhập khẩu chính: máy móc, thiết bị điện – 22%, nhiên liệu khoáng sản – 18%, sản phẩm hóa chất – 3%, thực phẩm – 6%, chất dẻo – 6%,
dệt may – 5%. Đối tác nhập khẩu chính: Phần Lan -14,52%, Litva – 10,84%, Latvia -10,47%, Đức – 10,33%, Nga – 8,59%, Thụy Điển – 8,34%, Ba
Lan – 5,63%.
Do chính sách đầu tư cởi mở, đối xử nhà đầu tư nước ngoài như trong nước nên đã thu hút được khá nhiều vốn đầu tư. Đầu tư (tổng cố
định): 22,5% GDP (2010). Đầu tư trực tiếp của nước ngoài: 17,530 tỷ USD (2010). Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài: 7,134 tỷ USD (2010).
Estonia tiếp tục đô thị hóa vào thế kỷ 21, với tỷ lệ đô thị hóa cao ở Tallinn, Tartu và những thành phố khác. Tuy nhiên, trong thập niên gần đây nhất bắt đầu hình thành các khu dân cư gần các trung tâm đô thị, cho thấy thay đổi về xu hướng đô thị hóa. Hơn 70% dân số Estonia sống ở các khu vực thành thị.
Mật độ dân số của Estonia trung bình là 30.6 người/km vuông, với một số khác biệt theo
khu vực. Hiiumaa có mật độ dân số thấp nhất với 10.2 người/km vuông, hạt Harju có mật độ dân số
cao nhất với 121.3 người/km vuông.
20 thành phố và thị trấn lớn nhất tại Estonia

1 Tallinn Harju 457,572 11 Valga Valga 12,173
2 Tartu Tartu 97,759 12 Võru Võru 12,112
3 Narva Ida-Viru 53,360 13 Keila Harju 10,964
4 Pärnu Pärnu 41,520 14 Jõhvi Ida-Viru 10,880
5 Kohtla-Järve Ida-Viru 33,434 15 Haapsalu Lääne 9,693
6 Viljandi Viljandi 17,255 16 Paide Järva 8,073
7 Maardu Harju 17,017 17 Saue Harju 6,227
8 Rakvere Lääne-Viru 15,695 18 Elva Tartu 5,692
9 Kuressaare Saare 13,185 19 Põlva Põlva 5,498
10 Sillamäe Ida-Viru 12,352 20 Tapa Lääne-Viru 5,492

https://vi.wikipedia.org/wiki/Estonia 9/9

Bình luận Facebook

Bài viết liên quan